Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Cao tốc lún và vết nứt lòng tin ở VN

Tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai với chiều dài 245 km, tổng mức đầu tư tương đương 1,5 tỉ USD đã được đưa vào sử dụng sau 7 năm thi công. Tuyến đường có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại 5 tỉnh, thành mà tuyến đường đi qua, rút ngắn thời gian hành trình trước đây.

Sau hai ngày khánh thành, tuyến cao tốc này đã xuất hiện lún, phát sinh nứt tách biệt nền mặt đường theo hình cung tại Km 83 chiều từ Yên Bái về Phú Thọ.

Trên truyền thông đại chúng, Bộ Giao thông vận tải và Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) đang cố gắng hết sức có thể để biện minh cho hiện trạng hư hỏng bất ngờ trên là do bất khả kháng, do khoảng cách vị trí xen giữa hai điểm khoan có địa chất bất thường, do mưa bão…

Ngoài vị trí đang bị lún nứt trên thì Bộ GTVT còn đang dự trữ 9 vị trí còn lại chắc chắn cũng sẽ xảy ra sự cố lún nứt tương tự, và là điều đã được tiên lượng để chối bỏ trách nhiệm tiếp theo.


Cũng dễ hiểu được mục đích biện minh này là muốn giữ uy tín, chối bỏ trách nhiệm của chính họ (Bộ GTVT và VEC). Hầu hết trong phát ngôn của họ đều bất chấp, bỏ qua và đi ngược nhiều quy định, quy trình quy phạm bắt buộc của các tiêu chuẩn dành cho thiết kế và thi công đường cao tốc của Việt Nam TCVN 5729 : 2012. (Theo mục 9.2.6 - Yêu cầu thiết kế đối với nền đường cao tốc đắp trên đất yếu). 


Quốc lộ 1A bị ngập trong đợt mưa bão năm 2013

Cụ thể:
  • Họ chấp nhận nứt là điều được tiên lượng thì việc bảo đảm tính ổn định toàn khối của nền đắp trên nền đất yếu là yêu cầu bắt buộc theo TCVN trên sẽ không còn giá trị.
  • Nếu cho là sai sót trong khoan địa chất thì số liệu quan trắc lún, dịch chuyển ngang, cắt cánh của nền đường trong quá trình thi công, trước khi xây dựng kết cấu áo đường không được thực hiện đúng quy định, hoặc chất lượng số liệu quan trắc không bảo đảm đủ tin cậy để phát hiện sai sót địa chất hi hữu giữa khoảng cách khoan trong thời gian thi công (hoặc gia tải nếu có). Điều đó mới dẫn đến nứt đường sau khi hoàn thiện mặt đường.
  •  
  • Bản chất của công việc theo dõi quan trắc lún, chuyển vị ngang, cắt cánh trong quá trình thi công nền đường đất yếu tuân thủ theo 22TCN 262 - 2000 và 22 TCN 211 - 06 không ngoài mục đích phát hiện kịp thời, để có biện pháp xử lý thích hợp trong thời gian thi công nền đường (nếu có), nhằm bảo vệ tính ổn định toàn khối, làm nền tảng quyết định triển khai tiếp mặt đường, nhất là cấp đường sử dụng tốc độ cao.

Bỏ qua các lý luận khôi hài “do lượng mưa lớn, đất nền và xung quanh bão hòa, tốc độ lún nhanh hơn dự kiến có thể là nguyên nhân sinh ra vết nứt”, lạm dụng quanh co tấm bản hiệu “Đường chờ lún” để đánh tráo khái niệm.

Còn lại bất cứ một biện minh nào, cho rằng đây là chuyện bất khả kháng, để bảo vệ hiện tượng nứt xé nền mặt đường mới hoàn thành đưa vào sử dụng, chính là sự ngụy biện có mục đích nhằm bao che lợi ich riêng và trấn an dư luận cộng đồng.

Ở Việt nam ngày nay căn bệnh biện minh, đánh tráo bản chất vụ việc một cách có định hướng, vì những lợi ích của cá nhân và tổ chức không còn là chuyện lạ.

Trong tất cả mọi lĩnh vực giáo dục, y tế, điện, nước, hành chính, hành pháp, vi phạm nhân quyền…việc đánh tráo này vẫn xảy ra hàng ngày. Lẩn tránh trách nhiệm, không dám đương đầu với sự thật để giải quyết tận gốc rễ vấn đề, là tính cách mặc định mà hầu hết những người lãnh đạo ở Việt nam đều mắc phải. Thử hỏi người dân xứ Việt đang ngóng chờ vào đâu?

Đừng để hiện tượng lún có kiểm soát trên đường thành vết nứt lòng tin của công đồng Việt Nam.

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Đèn cù và Những lời trăn trối

Gs Nguyễn Văn Tuấn/FB Nguyen Tuan
Tôi đọc 2 cuốn "Đèn cù" (của Trần Đĩnh) và " Những lời trăn trối " (Trần Đức Thảo) một lúc. Vì đọc chưa xong nên chỉ có thể viết linh tinh vài cảm nhận đầu tiên. Cả hai cuốn sách đều nói về chế độ cộng sản cùng những con người trong chế độ đó, và qua đó chúng ta có thể giải thích tại sao VN bị lệ thuộc vào Tàu suốt mấy mươi năm qua và tại sao VN vẫn còn ở dưới đáy của bậc thang phát triển như hiện nay và có thể cả tương lai.

Nhưng cách tiếp cận hay cấu trúc thì rất khác nhau giữa hai tác phẩm. Đèn cù có vẻ tập trung vào những cá nhân gầy dựng chế độ và những con người yểm trợ chế độ cộng sản ở VN. Tác giả được sống gần các nhân vật đó một thời gian dài và có thể tiếp cận nhiều thông tin có thể nói là thú vị. Chẳng hạn như tác giả được phân công viết một phần tiểu sử ông Hồ và có dịp tiếp cận thông tin về cá nhân ông ở địa phương, và ông cả Khiêm (anh ruột ông Hồ) cho biết ông Hồ sinh năm 1891 (chứ không phải 1890) nhưng tác giả không đào sâu phân tích chi tiết này. Tác giả cũng không viết một cách rạch ròi về gia phả của ông Hồ. Thật ra, hầu như bất cứ nhân vật nào, tác giả chỉ phác hoạ sơ sơ, bề mặt, chứ không hề có đào sâu. Tuy nhiên, cảm nhận của tôi khi đọc những đoạn trong Đèn cù, ông cụ Hồ là một người có vẻ thờ ơ và lạnh lùng với thân nhân, anh em của ông. Ông không hề nhắc đến cha mẹ, anh chị em, và từ ngày ông đạt được quyền lực tột đỉnh, cũng không về thăm và ở lại quê.

Lại có những đoạn mô tả các nhân vật chóp bu trong đảng làm cho độc giả ngạc nhiên về trình độ văn hoá và nhận thức của họ. Chẳng hạn như đoạn tác giả thuật lại chuyện Lê Duẩn hỏi Bs Phạm Ngọc Thạch rằng rau muống luột và rau muống xào cái nào tốt hơn. Một đoạn khác, tác giả cho chúng ta biết về quan điểm của Lê Duẩn liên quan đến in tiền. Chuyện kể rằng ông Duẩn phàn nàn với Thành uỷ Hà Nội sao không bán giường tủ cho công nhân viên và trừ lương hàng tháng, nhưng Thành uỷ nói không có tiền, ông Duẩn bèn phán không có tiền thì in tiền. Ông giảng giải thêm: "Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”
Ở một đoạn khác, tác giả thuật lại một chuyện khá bi hài về số phận của ông Trần Đức Thảo (TĐT). Chuyện kể rằng Lê Duẩn mới viết xong một đề cương về con người, và triệu tập TĐT đến để nghe và cho ý kiến. Khi ông Duẩn đọc xong đề cương, ông TĐT im lặng không nói gì, nhưng khi được đốc thúc thì ông Thảo nói ông chẳng hiểu gì cả. Thế là ông Duẩn đùng đùng nổi giận "hai tay quàng ôm lấy ngực triết gia, xốc lên, dội xuống mấy lần, rồi 'buông thịch' xuống một cái cho ông giáo sư rơi xuống ghế ngồi." 

Có lẽ điểm làm cho Đèn cù thu hút nhiều độc giả là ở cái tính cá nhân, mà theo đó, tác giả mô tả có vẻ rất thật cá tính của từng người mà ông có dịp tiếp xúc. Thỉnh thoảng trong sách tác giả còn chêm vào những câu chuyện sex hay có màu sắc sex, rất dễ thu hút những người Việt tò mò. Có những chi tiết buồn cười như tác giả chạy theo để dòm ông Hồ Chí Minh … đi tiểu, và khi bị phát hiện, tác giả "liếc nhanh vào chỗ kia của Cụ. Và chỉ thấy vùng ấy hơi tôi tối - nâu nâu hay hồng hồng? Ô, cũng như mọi người?” Đọc đoạn đó chỉ làm cho chúng ta tức cười. Nhưng cũng có vài đoạn làm cho người đọc phẫn nộ về sự dã man của quân du kích khi họ dẫm đạp thi thể bà Nguyễn Thị Năm xuống áo quan vốn quá hẹp so với thân thể của bà. Có lẽ chi tiết quan trọng nhất trong phần "Cải cách ruộng đất" là ông Hồ từng viết bài dưới bút hiệu "CB" tố cáo bà Nguyễn Thị Năm, và ông cũng bịt râu để xem đấu tố bà Năm. Chi tiết này cho thấy ông Hồ hoàn toàn đứng đằng sau vụ đấu tố chứ không phải chỉ làm theo áp lực của cố vấn Tàu như nhiều người nghĩ. 

Qua cách mô tả rất sinh động của Trần Đĩnh, độc giả sẽ thấy được những con người trong hệ thống đảng đã và đang được hệ thống tuyên truyền đề cao (hay thậm chí thần thánh hoá) chỉ là những con người rất bình thường và rất tầm thường. Họ không tỏ ra là những người minh triết hay có những phát kiến gì đáng chú ý. Qua ngòi bút của tác giả, ai cũng có thể thấy họ là những người cực kì giáo điều, tin tưởng vào Mao và Stalin gần như tuyệt đối. Họ sẵn sàng chấp nhận "giáo lí" Mao – Stalin, và có vẻ háo hức tình nguyện được làm "tín đồ" của tôn giáo đó. Họ muốn đưa VN thành một thành viên trong cái thế giới đại đồng mà tôn giáo Mao-Stalin vẽ ra. Còn sự tầm thường của họ sẽ làm cho nhiều người hâm mộ cảm thấy thần tượng bị sụp đổ hay khó tin. 

Khác với "Đèn cù" có xu hướng tập trung vào nhân vật trong hệ thống, cuốn "Những lời trăn trối" thì tập trung vào phân tích nền móng của chế độ và chủ thuyết cộng sản. Những lời trăn trối cũng có những đoạn mô tả cá nhân, nhưng đó chỉ là một chất liệu để tác giả TĐT phân tích và diễn giải thêm. Chẳng hạn như đoạn mô tả TĐT gặp ông Hồ trong An Toàn Khu (ATK cũng được Trần Đĩnh nhắc đến) đầy kịch tính. Người ta phải đến nói cho ông TĐT biết về qui tắc gặp lãnh tụ ra sao, như phải đứng cách lãnh tụ 3 mét, không được giơ tay bắt tay trước mà phải chờ, không được nói leo, phải xưng là "bác" và "cháu" chứ không được xưng "tôi", v.v. Đến khi lãnh tụ đến nơi, cuộc diện kiến chỉ có 1-2 phút với chưa đầy 4 câu nói: 

- À! Chào chú Thảo! Chú về đây đã được bao lâu rồi?

- Cháu xin kính cháo bác! Cháu về đây được 5 hôm rồi.

- À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở, nhưng bây giờ về đây, thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không? Thôi bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.

Thế là "bác đi". Nhưng cái câu "nhưng bây giờ về đây, thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không" được TĐT bỏ ra gần chục trang để phân tích! Ông cảm thấy ông là một đối tượng có vấn đề, và vấn đề là nhiễm tư tưởng phương Tây. Ông cảm thấy mình bị răn đe. Ông phân tích rằng trong cái nhìn của đảng, nhân dân chính là đảng, thành ra học tập nhân dân tức là học tập đảng! Ông TĐT lật đi lật lại cái câu "học tập nhân dân" và lí giải trong bối cảnh của ông. Ông đi đến kết luận rằng ông Hồ là một người rất phức tạp, hành tung bí mật (lúc thì đóng vai tình báo, lúc là sĩ quan mang lon thiếu tá trong Bát bộ quân, lúc vận áo cà sa, v.v.), thái độ khó hiểu, lời nói có khi đầy mâu thuẫn. Ông TĐT kết luận rằng đó là một "con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa nghi, có phản xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội, dù là mâu thuẫn với lí tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng điều cốt yếu là để đạt tới mục tiêu."

Trong Những lời trăng trối không có những câu chuyện cá nhân mang tín vụn vặt như Đèn cù. Thay vào đó, Những lời trăn trối có những kiến giải theo tôi là sâu sắc về chế độ và những phân tích tâm lí rất đáng học hỏi. Những kiến giải đó chỉ để tác giả kết luận rằng "Chính ông Marx đã sai", và "không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản". Tác giả lặp đi lặp lại 2 khẳng định đó như để nói rằng chủ thuyết cộng sản (mà tác giả từng có thời ủng hộ) là sai, là nguyên do của những thất bại và đau khổ cho một thế giới không nhỏ trong một thời gian dài. Ông giải thích: 

"Chính vì lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra nhữg lãnh tụ đã thành những ác quỉ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng sản đã bị hi sinh một cách oan uổng và vô ích … và ở nước ta có hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ mổ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và rồi đã có hàng triệu người đã liều chết bỏ cửa bỏ nhà chạy ra biển gây thảm cảnh "thuyền nhân" sau 1975 … làm cả thế giới rơi lệ. Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm mùi lâu đài 'thế giới đại đồng' của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ muốn đi tìm nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự" (Trang 342). 

Một đoạn khác, ông giải thích cái gọi là "quỉ" như sau: 

"Quỉ ấy là thứ đầu óc đầy gian sảo, hung bạo của quyền lực. Quỉ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con người lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng làm khổ con người! Xét như vậy là thấy rõ là quỉ nó vẫn ở với người, vẫn ở trong con người lãnh đạo." 

Còn rất nhiều đoạn như tôi vừa trích để cho thấy TĐT không quan tâm nhiều đến cá nhân, mà chỉ kiến giải hành vi của cá nhân. Một số người cho rằng một điểm yếu của Những lời trăng trối là do người khác ghi lại lời nói của ông TĐT, và nghi ngờ chẳng biết ghi chép có chính xác. Đến nay thì người ghi chép đã công bố cuốn băng có lời nói của ông TĐT:

 
Có thể nói rằng Những lời trăn trối có hàm lượng tri thức hơn hẳn cuốn Đèn cù. Nhưng trong thực tế, tôi thấy hai cuốn này bổ sung cho nhau. Một cuốn phân tích những sai lầm của chủ thuyết từ cơ bản, và một cuốn thì mô tả sự ứng dụng của chủ thuyết đó bởi những con người cuồng tín đầy ấp những bất cập và khiếm khuyết. Hệ quả là đất nước lâm vào cảnh điêu tàn trong một thời gian dài, và cho đến ngày nay vẫn còn nằm dưới đáy của bậc thang phát triển.


Người Việt đẳng cấp thế giới

Nhạc sĩ Tuấn Khanh/ Blog Tuấn Khanh

Nếu chỉ nhìn trên mặt báo, người Việt dường như luôn đang ở tầm thế giới. Bất chấp mọi con số hay hình ảnh trần trụi xót xa nào mà chúng ta đang có, người Việt hôm nay lộng lẫy không khác gì công dân của các cường quốc được hâm mộ.

Trên các bản tin, hình ảnh người Việt chen chúc nhau xếp hàng cùng các công dân Nhật, Singapore… để chờ mua chiếc Iphone 6 vừa ra mắt. Gương mặt của những công dân Việt Nam mệt mỏi nhưng đầy sự thoả mãn của sự hưởng thụ cảm giác bằng vai phải lứa cùng cường quốc năm châu.

Không biết từ lúc nào, khát vọng về một đẳng cấp thế giới đã ám ảnh người Việt từ sự khoe khoang sở hữu cho đến du lịch, bóng đá… Từng con người hoặc từng đám đông đang cố nhoài người tách ra khỏi thực tế của một quốc gia, chỉ để chứng minh rằng mình có một đẳng cấp thế giới.

Thật khó hiểu khi tiêu chuẩn để trở thành người được sáng danh trên các trang báo, là các nhân vật mua được sớm nhất các thiết bị điện tử có giá đắt đỏ vô lý. Người sở hữu chiếc Iphone có giá mua hơn cả một năm lương của người nghèo lại được tung nghênh hơn một người lao động làm ra của cải hay giúp đỡ cho người khác tương đương với số tiền ấy. Một ca sĩ không có giọng hát hay bài hát nào ra hồn lại được ca tụng như một hit pop-star chỉ vì có Iphone sớm nhất.

Vậy đó.

Thói đam mê ảo ảnh hơn người, như loại dục vọng không thể kềm nén nổi tầm quốc gia, căn bệnh “đẳng cấp thế giới” đang lồ lộ trên báo chí, truyền hình – mà ngay cả những bài viết ca ngợi những đẳng cấp đó, cũng không giấu nổi sự sôi sục thèm khát của chính người viết.

Giấc mơ đẳng cấp thế giới không chỉ xuất hiện ở chiếc Iphone hay mua được chiếc vé xem đá banh ở Nam Mỹ. Nó xuất hiện đôi khi trơ trẽn trong các bản tin về những người trẻ “gốc Việt” thành đạt trên thế giới. 

Phải chăng sự khốn khó kéo dài dễ dẫn đến ảo giác về một huyền thoại chủng tộc Việt, khiến giới truyền thông hay chụp bắt các gương thành đạt của người Việt trong chính trị hay y khoa, thể thao, điện ảnh… ở nước ngoài như một điều tự hào dân tộc rất “chung và hiển nhiên” mà không cần biết điều kiện nào đưa những người Việt đó đến đích. 

Tôi vẫn còn nhớ chuyện đạo diễn Kim Nguyễn ở Canada với phim War Witch được đề cử Oscar 2013. Báo chí Việt Nam trong căn bệnh thích có chân trong đẳng cấp thế giới đã tìm mọi cách để nhắc Kim Nguyễn về cội nguồn của anh. Kết cục là khi được hỏi anh có ý định nào làm phim với người Việt, xứ Việt hay không, Kim Nguyễn đã nói nhanh rằng “không” và giải thích rằng mình không thấy có mối liên hệ nào ràng buộc mình để phải làm vậy cả. Gần hơn, là chuyện cầu thủ trẻ Phạm Huy Tiến ở Romania. Sau khi tung hô rằng xứ sở của “người Việt mình” cũng có người “gốc Việt” đẳng cấp thế giới, báo chí cũng nhận được gáo nước lạnh từ chàng trai này là kiên quyết không quan tâm về nước thi đấu, dù được trãi thảm đỏ.

Trong những trận bóng của U19 vừa rồi, một bạn trẻ nhắn cho tôi rằng anh ta buồn chán vì thấy người Việt thật tệ trong việc ném chai nước, chiếu đèn vào cầu thủ Nhật khi họ thắng đội Việt Nam. Tôi đã phải nói rất nhiều để anh bạn đó phân biệt rõ: Yêu thể thao và khát vọng thượng đẳng là 2 điều khác nhau. Việc thù ghét kẻ vượt trội hơn mình trong thể thao hay văn hoá có thể bị coi là một cuộc đấu tranh giai cấp điên cuồng đáng khinh. 

Tệ hơn nữa là sự thù ghét kẻ hơn mình lại khoác chiếc áo chủ nghĩa ái quốc cực đoan. Việc coi mình phải luôn hơn kẻ khác cũng là tiền đề dẫn đến sự bùng phát của chủ nghĩa Facist, từ chủng tộc thượng tôn Aryan. Đó là thảm hoạ. Tôi và anh bạn trẻ đó hẹn nhau ở những trận bóng tới, sẽ nhìn ngó xem bao nhiêu là người yêu thể thao và bao nhiêu là người chỉ là nhân danh.

Anh bạn trẻ nói với tôi rằng dẫu sao, người Việt cũng có một hành động đẹp là chia nhau lượm rác sau trận đấu. Tôi lại phải giải thích rằng hai trạng thái đó cũng khác nhau, và những nhóm người đó cũng khác nhau. Việc bắt chước hành động thượng đẳng của người Nhật trên sân vận động không hề chữa lành được việc làm nhơ nhuốc trước đó, khi thua trận bóng. Thậm chí nếu trong nhóm người nhặt rác đó có người đã ném chai, chiếu đèn… Vào đội Nhật, nó cũng trình bày một hiện trạng của người Việt: phong trào thích bắt chước những hành động cao quý nhưng lộ rõ sự giả tạo bề ngoài, che đậy những trái tim không thượng đẳng.

Có lần, một anh bạn người Pháp hỏi tôi rằng “nước của anh tuyên bố có rất nhiều tiến sĩ nhưng sao lại rất ít bằng phát minh?” Thật khó mà giải thích được một cách ngắn gọn rằng đó chỉ là những tuyên ngôn trình diễn giấc mơ thượng đẳng của những người không màng trách nhiệm với đất nước. Nó giống như việc Viện trưởng Viện Kinh tế chiến lược VN –châu Á, ông Nguyễn Xuân Kiên mới đây tuyên bố rằng 20 năm nữa Việt Nam là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Làm sao mà giải thích được tượng đài mơ đẳng cấp thế giới treo đèn kết hoa ấy, được dựng nên bằng cát đá của hàng ngàn công trình hạ tầng đang sụp đổ, của những món nợ công khổng lồ mà nhiều đời con cháu Việt phải gánh trả hay một quốc gia bị tham nhũng đục ruỗng từng ngày đến mức ông Nguyễn Minh Triết, nguyên chủ tịch nước đã phải kêu lên “tham nhũng đang đe doạ chế độ”.

Đẳng cấp thế giới của người Việt chắc chắn không là chuyện sở hữu các loại smartphone mới nhất, không phải là chen chân vào đoàn siêu xe với các triệu phú Việt kiều đi vòng quanh nước Mỹ mượn ý nghĩa Hoàng Sa -Trường Sa, không phải là đám đông thích giương cờ hò hét trong các trận bóng hay nguyện quan tâm đến sự sống chết của loài tê giác ở Châu Phi… Tôi tin là người Việt sẽ có một đẳng cấp thế giới khi thật sự biết đau xót từ chuyện già trẻ giành nhau những chiếc áo đi mưa, bốc hốt trong bữa tiệc buffet… cho đến biết tức giận và hành động trước nạn bạo hành con trẻ, biết quan tâm và chia sẻ việc đòi công lý những điều oan khuất vẫn hiện ra trên báo chí mỗi ngày. 

Sự thượng đẳng nằm trong trái tim mình – nó đang bị giam cầm bởi sự chập choẻng bề ngoài như một thảm nạn của dân tộc. Sự chập choẻng ấy biến chúng ta thành một dân tộc thiếu sự trưởng thành. Đẳng cấp thượng đẳng của một dân tộc – nếu có – sẽ thật sự đánh thức từng người, rằng cuộc sống không chỉ cần riêng mình no đủ và nhởn nhơ vô tâm với cuộc sống thật chung quanh mình.


Cái loa phường và nghi lễ tôn giáo

Gs Nguyễn Văn Tuấn/ FB Nguyen Tuan
Ảnh sưu tầm Internet
Nhân đọc một bài dài trên tạp chí World Affairs Journal về cái loa phường ở VN làm tôi liên tưởng đến một nghi lễ của Hồi giáo. (Bạn nào cần học tiếng Anh, bài này rất đáng đọc). Hai lần đi công tác bên Saudi Arabia tôi chú ý đến cái loa ở phi trường và vài nơi công cộng tôi đã ghé qua, cứ đến giờ sáng, trưa và chiều, họ phát thanh một đoạn kinh Koran (tôi đoán thế) với một giọng đọc rất thánh thót.

 Tôi nghĩ cái loa phường ở VN cũng là một loại nghi thức tôn giáo, nhưng chỉ có khác là nó rè và cũ mèm hơn cái loa bên Saudi Arabia. 

Tạp chí World Affairs Journal có đi một bài rất dài và hay của Michael Totten về những bóng ma của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á (1). Tác giả dùng chữ "The Ghosts of Communism in Asia". Bài viết, thật ra, dùng bối cảnh Việt Nam làm chất liệu cho ý tưởng. Một trong những bóng ma mà tác giả đề cập đến là … những cái loa phường ở Hà Nội. Bài viết có vài chi tiết vui về cái loa phường, và sau đó tác giả đi ngược thời gian về những nhà tù ở VN trong thời chiến và những trò tuyên truyền ở miền Bắc trước 1975. Những thủ thuật, phương tiện tuyên truyền đó vẫn còn tồn tại cho đến nay, và tác giả ví như là những bóng ma cộng sản.

Tác giả kể rằng trong một chuyến đi du lịch VN, anh ở trong một khách sạn nhỏ trong khu Phố Cổ Hà Nội. Trời mới hừng sáng anh đã bị đánh thức vì cái loa đang phát thanh với âm lượng rất cao. Khốn khổ cái loa phường nó được lắp đặt ngay tại cửa sổ phòng ngủ của anh ta! Thoạt đầu, anh ta ngạc nhiên không biết chuyện gì xảy ra, nên xuống hỏi cô tiếp viên khách sạn cho ra lẽ. Cô tiếp viên vừa xin lỗi vừa nói đó là bản tin buổi sáng của Nhà nước. Một người Việt ngồi bên cạnh thì nói "Oh, đó chỉ là tuyên truyền mà". Anh du khách (tác giả) hỏi thêm "thế có ai lắng nghe không?" thì người đó nói "không ai có thể nghe được vì quá ồn ào". Anh du khách người Mĩ cảm thấy vui vui vì cái mà anh ta đã gặp loại tuyên truyền này ở Moscow năm 1956 thì nay nó xuất hiện (hay tồn tại) ở một quốc gia Đông Nam Á vào năm 2014.

Nghĩ đến cái viễn cảnh vài ngày tới, anh chàng du khách bắt đầu lo lắng. Chẳng lẽ mình, anh nghĩ, phải chịu đựng cái loa này khi nó bắt mình phải thức giấc sớm hoài? Anh ta ngạc nhiên hỏi người tiếp viên nội dung của bản tin là gì, thì được biết rằng đó là nội dung buổi họp chi bộ phường ngày hôm qua. Anh chàng du khách nghĩ rằng tuy VN vẫn duy trì chế độ độc đảng nhưng đã thoải mái hơn trước đây, dù mỗi ngày đảng vẫn nhồi nhét những "bullshit" (rác rưởi) vào tai của người dân, bất kể người dân có thích hay không.

Cảm nhận của anh du khách Michael Totten cũng chính là cảm nhận của tôi. Có lần đi dự hội nghị ở Hội An, tôi ngạc nhiên khi cái loa phường nó oang oang vào sáng sớm, hình như là khoảng 5 AM. Tôi tưởng Hội An là khá "văn minh" vì có nhiều khách du lịch, nhưng không ngờ Hội An phải chịu sự tra tấn của cái "tàn dư" từ thời bao cấp này. Sau này, tôi biết cái loa phường nó có mặt ở rất nhiều nơi, từ nông thôn đến thành thị. Tôi rất ngạc nhiên về sự tồn tại của cái loa phường trong thế kỉ 21, thời đại của điện thoại di động, internet, báo điện tử, và truyền thông đa phương tiện. Nó chứng tỏ VN tuy có vài đổi mới, nhưng hệ thống tuyên truyền thì vẫn rất trung thành với mô hình Mao – Stalin. 

Loa phường dĩ nhiên không phải là sáng kiến của VN mà là bắt chước từ Tàu hoặc Nga. Ở Tàu, loa phường hiện diện khắp nơi, đặc biệt là ở những góc phố, từ nông thông đến thành thị. Tàu thì có thể bắt chước từ Nga như anh chàng du khác trên đề cập đến. Tôi nghe nói Tàu đã bỏ hệ thống loa phường 30 năm trước, nhưng không có điều kiện kiểm chứng. Tuy nhiên, sự tồn tại của nó ở VN vừa thể hiện một sự lạc hậu về công nghệ tuyên truyền, nhưng cũng là một lạc hậu về chính trị so với Tàu.

Tôi nghĩ trong các nước theo mô hình Mao-Stalin, người ta rất quan tâm đến hai bộ máy: một là tuyên truyền, hai là "tổ chức". Một bộ máy thì nắm nhân sự, xem họ như những con cờ có thể phục vụ hay hi sinh để Nhà nước đạt mục tiêu. Một bộ máy chuyên lo kiểm soát thông tin và dùng thông tin để tẩy não công chúng. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy hai bộ máy này có quyền lực rất lớn và bao phủ lên mọi hoạt động xã hội. Theo một thống kê, VN có khoảng 900,000 cái loa phường trên khắp nước (2). Cái loa phường ở VN không chỉ đơn giản là cái loa làm ô nhiễm không gian công cộng, mà nó tượng trưng cho quyền lực của đảng trong việc kiểm soát thông tin và tẩy não. 

Rất rất nhiều trường hợp người bị tẩy não không hề biết họ là nạn nhân; do đó khi nghe thông tin nào ngược với những gì được giáo huấn bởi cái loa phường, họ không muốn tin, hay tìm cách bác bỏ (như nguồn tin khó kiểm chứng!) Họ quên rằng cái nguỵ biện "tin khó kiểm chứng" cũng có thể áp dụng cho tất cả những thông tin do cái loa phường truyền đi. Có lẽ vì bị tẩy não nên họ không có khả năng xử lí thông tin và đặt thông tin trong bối cảnh để đánh giá sự tín cẩn của thông tin, nên họ tiếp tục bị tẩy não đến khi chết. 

Nhưng trong thời đại internet, việc tẩy não bắt đầu mất hiệu quả. Hầu như bất cứ thông tin nào từ bộ máy tuyên truyền đều có thể kiểm chứng khá dễ dàng. Cải cách ruộng đất? Chỉ cần vài cái nhấp chuột là có thông tin từ nhân chứng sống để so sánh với thông tin mà Nhà nước tự cho là "chính thống". Internet còn là một trường học lớn, vì qua đó mà người dân bắt đầu phân biệt được thế nào là nguỵ biện và logic, thế nào là tuyên truyền và sự thật, v.v. Hệ thống loa phường do đó cũng không còn hiệu quả như trước nữa. Trong thực tế, ngày nay chẳng ai quan tâm đến thông tin phát thanh qua những cái loa, vì họ có khả năng tìm thông tin từ nguồn khác. Cái loa phường không chỉ gây phiền toái cho du khách và nhất là cho người dân ở VN. Tôi nghĩ nếu hỏi 100 người dân có thích cái loa phường hay không, tôi nghĩ 100 chắc sẽ nói là "không". 

Có thể nói cái loa phường ở VN như là một "ritual" = nghi lễ tôn giáo. Ở các nước Hồi giáo (tôi có kinh nghiệm ở Saudi Arabia) mỗi sáng, trưa và chiều có chương trình đọc kinh được phát thanh qua các loa và đài radio (tôi chưa kiểm tra xem có phát hình hay không). Ở VN, tuy không phải là nước Hồi giáo, nhưng bản tin loa phường buổi sáng và buổi chiều cũng có thể xem là một "nghi lễ" tôn giáo. Trong tôn giáo, người ta bắt tín đồ phải tin theo giáo lí, và điều đó là lựa chọn của tín đồ. Nhưng ở VN, tuy số "tín đồ" tôn giáo mà Nhà nước tin và theo chỉ 2-3 triệu, nhưng cái nghi lễ đó thì cả 90 triệu người bị ép buộc phải nghe. Đó là một sự không công bằng. 

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Nói láo kiểu VN và thống kê

Gs Nguyễn Văn Tuấn/ FB Nguyen Tuan
Đã từ lâu, các tổ chức quốc tế không tin vào những con số thống kê của VN do các cơ quan Nhà nước sản xuất và cung cấp. Chẳng hạn như con số thất nghiệp (1.84%) gần đây gây ra nhiều tranh cãi, nếu không muốn nói là khó tin. Càng khó tin hơn khi người ta trình làng con số 80% người dân hài lòng về dịch vụ công. Trời ạ!

 Trong cái môi trường tham nhũng và nhũng nhiễu tràn lan như VN mà 80% người dân hài lòng với dịch vụ công! Nhưng sốc nhất có lẽ là con số chỉ 1 người không trung thực trong số 1 triệu người kê khai tài sản. Nhưng những con số đó nó có mặt và cứ như là cười cợt và thách thức dư luận công chúng.

Không phải người nước ngoài không tin con số thống kê của VN, mà ngay cả người trong nước cũng không tin. Cách đây không lâu, Thủ tướng Chính phủ, khi bình luận về con số GDP của các tỉnh, ông nói: "Cách tính GDP của các tỉnh thành hiện nay không xác thực, không đúng thực tế và so với quốc tế thì không giống ai cả". 

Đúng là chẳng giống ai về định nghĩa. Định nghĩa "thất nghiệp", một quan chức thuộc Viện Nghiên cứu khoa học và xã hội, nói: "Một người không có việc có thể lấy xe máy đi chạy xe ôm, làm gánh rau lên chợ hoặc ra chợ người ngồi đấy, ngày hôm đấy người ta kiếm được một suất thì người ta không thất nghiệp". Tôi không làm về kinh tế, nhưng nghe qua cách lí giải đã thấy ... vô lí. Nếu tôi bị mất việc toàn thời gian, phải đi gánh rau bán hay lái xe ôm thì chỉ là tạm thời, chứ tôi vẫn tìm việc làm. Chính việc "tôi đang tìm việc làm" phản ảnh tôi đang thất nghiệp. Do đó, ở nước ngoài người ta định nghĩa [chung] về người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động đang không có việc làm và tích cực tìm việc làm trong 4 tuần qua. Với định nghĩa đó, Úc có tỉ lệ thất nghiệp khoảng 4-6% (tuỳ tháng và năm). Tôi chưa nghe nước tư bản "giãy chết" nào có tỉ lệ thất nghiệp dưới 2%. 

Con số thống kê là sản phẩm của hoạt động xã hội. Nói đúng ra, nó là sản phẩm của con người. Mà, con người thì có lựa chọn, nên con số thống kê có khi cũng là sản phẩm của những lựa chọn. Tôi có thể nói tỉ lệ người dân hài lòng với dịch vụ công là 80% nếu tôi đặt câu hỏi theo ý của tôi mà tôi không cho người trả lời nhiều lựa chọn. Chẳng hạn như kiểu lấy phiếu tín nhiệm Quốc hội, người ta chỉ cho người trả lời 3 lựa chọn "tín nhiệm cao", "tín nhiệm", và "tín nhiệm thấp", mà không có lựa chọn "không tín nhiệm"! Dĩ nhiên, ai cũng biết đó là một trò gian lận rất thấp, nhưng người ta vẫn làm để có kết quả người ta mong muốn.

Đến con số GDP mà các tỉnh thành còn làm "không giống ai" như Thủ tướng nói thì đủ biết các quan chức chẳng xem đạo đức nghiệp vụ và sự trung thực ra gì. Thủ tướng mà còn nói như thế, chẳng khác gì ông nói quan chức các tỉnh ... nói dóc. Nên nhớ rằng ông tổ cộng sản Lenin từng nói "Thống kê là tai là mắt của đảng", vậy mà người ta dám bịt mắt và bịt tai đảng bằng những con số thống kê dóc!

Cựu thủ tướng Anh Benjamin Disraeli từng so sánh con số thống kê với nói dóc. Ông nói: "lies, damned lies, and statistics" (láo, đại láo, và thống kê). Câu này hàm ý nói rằng người ta dùng con số thống kê để biện minh cho các lí giải kém thuyết phục. Câu nói của Disraeli vẫn còn tính thời sự ở VN: những con số tỉ lệ thất nghiệp 1.84% hay 80% hài lòng với dịch vụ công chỉ là những biện minh cho những lí giải quá yếu.

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Báo cáo láo như bịt mắt đi trong đêm

Lời bàn: Đúng là láo từ trên xuống dưới. Đọc nghe mắc cười đến ... đổ nước mắt!
Nam Nguyên/ RFA
Những phụ nữ làm thuê ở Hà Tây
Bộ Lao động Thương binh Xã hội vừa công bố tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam cập nhật đầu tháng 9/2014 chỉ có 1,84%, tức ở mức thấp nhất thế giới mà những nước phát triển phương tây nằm mơ cũng không thể có. Con số ảo đầy tính khôi hài này nên được hiểu như thế nào.

Những con số khôi hài ...

Trong cuộc phỏng vấn tối 11/9/2014, từ Hà Nội chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành nhận định:

"Cả cái đất nước như thế này, hàng trăm nghìn doanh nghiệp bị phá sản trong mấy năm vừa rồi thì làm sao tỷ lệ lao động thất nghiệp chỉ 1,84% được. Các nước như Mỹ, Nhật, Châu Âu nó ở cái số nào chứ làm gì có cái phẩy bao nhiêu. Mình nói như vậy là không biết xấu hổ trong vấn đề báo cáo. Những việc này Nhà nước Việt Nam các vị lãnh đạo nên ngồi suy nghĩ lại đừng đưa ra những con số làm cho cả thế giới người ta cười. Việt Nam cần xem lại vấn đề thông thoáng và trung thực thông tin, chứ còn thông tin như thế thì ai mà nghe cho được.”

VnExpress bản tin trên mạng ngày 10/9/2014 trích lời bà Nguyễn Thị Hoài Thu, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Việt Nam mô tả tỷ lệ thất nghiệp 1,84% do Bộ Lao động và Thương binh Xã hội đưa ra là “lạc quan tếu”. Bà Hoài Thu nói: “không biết người ta định nghĩa thế nào là thất nghiệp. Nhưng thực tế có rất nhiều người thất nghiệp, lúc nào trên đường phố, quán xá cũng đầy người. Nếu người ta có việc làm thì phải ở trong cơ quan, công sở, nhà máy. Nếu tỷ lệ thất nghiệp thấp như ngành Lao động công bố thì người ngồi la cà quán xá, đi đường trong giờ hành chính chắc không đông đến thế.”

Ông Phạm Thành ở Hà Nội, một nhà báo từng nhiều năm phục vụ truyền thông nhà nước nhận xét về những con số ảo được báo cáo mà trước kia ông gặp hàng ngày khi tác nghiệp báo chí: 

"Nó nhờ cơ chế nó lên cho nên nó dốt nát đưa ra con số đó thôi. Bây giờ dân Việt Nam chẳng ai tin con số đó đâu. Trên thực tế ngay trong khu mình cư trú, nếu chịu khó ra chỗ chợ lao động ở trên phố thì thấy dân thất nghiệp ở đó đầy ra. Trước nay ngay những người có bằng cấp đại học mà vẫn thất nghiệp.”

Tờ báo mạng lề trái Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo độc lập mô tả câu chuyện tỷ lệ thất nghiệp 1,84% thấp nhất thế giới là bệnh báo cáo láo. Tác giả bài viết trích lời Ông Nguyễn Bá Thanh trưởng Ban Nội chính Trung ương từng gọi là bệnh ‘báo cáo láo thành quen’.

Nhà báo Phạm Thành đặt vấn đề theo cách riêng của ông:

"Xưa nay cộng sản có bao giờ dựa vào sự thật để làm cái gì đâu, đấy là bản chất của họ. Bây giờ mấy ông chóp bu nhìn nhận vấn đề bằng cảm tính nếu muốn đưa ra chủ trương đường lối chính sách gì là theo ý chí của các ông ấy. Khi mà ý chí của các ông ấy phổ biến ra, thì các bộ phận chức năng phải làm sao đưa ra các số liệu cho nó phù hợp ý chí chủ quan của họ, chứ cộng sản nó có bao giờ nó làm trên con số thực đâu.” 

Nếu Việt Nam đề ra chính sách chiến lược phát triển mà dựa trên những số liệu ảo thì đất nước có thể sẽ phải chịu nhiều hệ lụy nguy hiểm. Chuyên gia Bùi Kiến Thành nhấn mạnh:

“Tất nhiên, mình đưa ra một con số ảo để dựa vào đó làm kế hoạch thì tất cả kế hoạch đều ảo hết thôi. Kế hoạch mà không có con số chính xá thì làm sao mà làm kế hoạch được, vì vậy cho nên chúng ta sống trong thế giới ảo, rồi tự cho mình là ghê gớm lắm. Bởi vậy cho nên có nhiều vấn đề xảy ra, nên kinh tế không có con số chính xác thì làm sao mà làm việc được. Việc này là cả vấn đề, chính sách của nhà nước phải nhìn rõ sự thực, tình hình nó như thế nào. Đừng bịt mắt mà đi trong đêm nguy hiểm lắm, cũng như đang lái xe ban đêm trên đường cao tốc mà tắt đèn đi thì làm sao không gặp sự cố.”

... do bệnh thành tích

Chuyên gia Bùi Kiến Thành nói với chúng tôi là không thể tưởng tượng được từ nhiều thập niên đã qua, cơ quan chức năng của Việt Nam luôn tạo ra những con số hoành tráng và những báo cáo khó tin. 

“Đối với nền kinh tế quốc dân của bất cứ nước nào, trọng trách lớn nhất của quản lý nhà nước là làm sao tạo công ăn việc làm cho đất nước mình. Vì vậy cho nên vấn đề là thời gian của người lao động không trở lại, không có gì lãng phí hơn là lãng phí thời gian cuộc sống của người lao động trên đất nước của mình. Mình không nhìn rõ vào sự thực chỉ nhìn con số báo cáo như thế rồi mình cho là thành tích này thành tích nọ, vấn đề đó cực kỳ nguy hiểm. Phải xem rõ sự thực nền kinh tế đất nước như thế nào, số người thất nghiệp ra sao, tại làm sao mà thất nghiệp chứ làm gì có con số 1,8% mà không biết ngượng. Riêng tôi tôi lấy làm xấu hổ cho những con số như thế.” 

Báo Đất Việt và Dân Trí điện tử ngày 8/9/2014 trích lời PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc, Phó viện trưởng viện Khoa học Lao động và Xã hội biện giải về tỷ lệ thất nghiệp 1,84% mà tổ chức này đưa ra. Theo đó số liệu là do Tổng Cục Thống Kê làm ra và đánh giá thất nghiệp theo tiêu chuẩn chung của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO. Tuy rằng chính ILO thừa nhận cách đánh giá hiện hành không phù hợp với các nước như Việt Nam, vì nền nông nghiệp còn duy trì khối lượng lao động rất lớn. Phó Viện trưởng Nguyễn Bá Ngọc nhấn mạnh rằng, ở các nước công nghiệp phát triển, làm ra làm, thất nghiệp ra thất nghiệp chứ ở Việt Nam là kiểu thất nghiệp nửa vời, không có việc về vẫn tranh thủ làm cái này cái kia.

Tìm hiểu thực trạng Việt Nam, những người không có việc làm vẫn không đói, họ có thể đi câu cá, bắt tép mò cua, làm đủ thứ việc vặt, linh tinh ở khắp nơi và cơ quan chức năng vẫn xem họ là có việc làm? Phải chăng những yếu tố này góp phần tạo nên báo cáo tỷ lệ thất nghiệp 1,84% vừa nêu.

Đáp câu hỏi cách đánh giá thất nghiệp ở phương tây và Việt Nam có gì khác biệt hay không, khi mà nền kinh tế phát triển nhất thế giới là Hoa Kỳ vẫn thường xuyên có tỷ lệ thất nghiệp 6%-7%. Chuyên gia Bùi Kiến Thành phát biểu: 

"Hoàn toàn khác biệt, Việt Nam thất nghiệp 1,84% của cái gì, cơ sở để tính phần trăm đó là cái gì? Điều này chúng ta chưa rõ ràng, bình thường như vậy người ta nói thất nghiệp trong toàn số, dân số của mình bao nhiêu, bao nhiêu ở thôn quê, bao nhiêu ở thành thị, bao nhiêu làm nông nghiệp thì phải nói cho rõ. Những người có việc làm là bao nhiêu, những người mất việc làm là bao nhiêu. Chúng ta không làm việc ấy thành ra cơ sở nào nói 1% hay 10%, cơ sở đó chúng ta không rõ ràng. Cơ sở Bộ Lao động đưa ra là cơ sở ảo không phải cơ sở thật.”

Con số thất nghiệp của Việt Nam là 1,84% như công bố của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, trực thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trở thành một câu chuyện hài mà chính báo chí lề phải của Việt Nam cũng không bỏ qua. Hồi đầu năm 2014, bà  Phạm Thị Hải Chuyền Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng từng báo cáo một con số đẹp, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam là 1,99%.
Bệnh thành tích thâm căn cố đế, thí dụ những con số không trung thực về mức tăng Tổng sản phẩm nội địa GDP của 63 tỉnh thành khi nhập lại thì thường gấp đôi mức tăng GDP của cả nước. Bệnh thành tích, nói láo ăn tiền, báo cáo láo thành quen rất phổ biến ở Việt Nam đến độ người dân chẳng màng quan tâm. Và có lẽ những con số thống kê bịa đặt không chỉ dừng ở chỗ ‘lạc quan tếu’ như phát biểu của bà Nguyễn Thị Hoài Thu, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Quốc hội về các vấn đề xã hội. Tác hại của nó trong mấy thập niên vừa qua có lẽ không bao giờ có thể tổng kết được.

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

Kiến nghị cuả Hội thảo về Chấn hưng, Cải cách, Hiện đại hoá Giáo dục cuả các giáo sư đã có nhiều đóng góp trong việc giáo dục và đào tạo

Lời dẫn: Giáo sư Hoàng Tụy sinh ngày 17 tháng 12 năm 1927 tại làng Xuân Đài, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, là cháu nội của cụ Hoàng Văn Bảng, đỗ Cử nhân và từng giữ chức Án sát sứ nhiều tỉnh như: Quảng Ngãi, Quảng Bình, Quảng Nam, Hà Tĩnh. Cụ Hoàng Văn Bảng chính là em ruột của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu. Thân phụ của ông là ôngHoàng Kỵ, từng làm quan dưới thời Duy Tân, Khải Định, được thăng chức Thị Giảng học sĩ. Các anh em ông có 7 người đỗ đạt thì 5 người làm giáo sư đại học như Hoàng Phê (ngôn ngữ học), Hoàng Quý (vật lý), Hoàng Kiệt (mỹ thuật), Hoàng Tụy và Hoàng Chúng (toán học)…
Tuy vậy, năm ông lên bốn tuổi thì thân phụ qua đời. Thân phụ làm quan thanh liêm, nên gia đình túng bấn lại đông anh em nên tuổi thơ của ông rất vất vả, tuy nhiên đều giữ nếp nhà trong việc học hành. Giỏi văn học Pháp, nhưng ngay từ thời trung học, Hoàng Tụy đã bộc lộ thiên hướng toán học. "Nhảy cóc" hai lớp, là thí sinh tự do, tháng 5 năm 1946, ông đỗ kỳ thi tú tài phần một và bốn tháng sau đó, đỗ đầu tú tài toàn phần ban toán tại Huế. Ông theo học Đại học Khoa học ở Hà Nộinhưng bỏ dở. Sau đó ông được mời dạy toán tại trường trung học Lê Khiết ở Liên khu V. Ông là một giáo sư, nhà toán học tiêu biểu của Việt Nam. Cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm, ông là một trong hai người tiên phong trong việc xây dựng ngành Toán học của Việt Nam. Hoàng Tụy được coi là cha đẻ của lĩnh vực Tối ưu hóa toàn cục (Global Optimization) trong Toán học Ứng dụng.
Không chỉ là một nhà Toán học, Hoàng Tụy cũng có nhiều đóng góp cho giáo dục Việt Nam. Ông cũng là sáng lập viên Viện Nghiên cứu Phát triển IDS mà ông là Chủ tịch Hội đồng Viện.
Hoàng Tụy là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1950
Gs Hoàng Tụy/ Niềm tin tương lai 
Bản kiến nghị này gồm ba phần. Phần đầu phân tích thực trạng của giáo dục để tìm ra cái gốc các khó khăn và bất cập hiện nay. Phần thứ hai đề xuất phương hướng hiện đại hoá giáo dục để khắc phục các khó khăn và bất cập một cách cơ bản. Phần thứ ba trình bày một số giải pháp cấp bách cần thực hiện để trả lại môi trường hoạt động bình thường cho giáo dục, và mở đường chuyển dần sang cải cách, hiện đại hoá toàn hệ thống.

 I. Thực trạng giáo dục
 
Ai cũng biêt vai trò quan trọng then chốt của giáo dục đối với tiền đồ dân tộc. Thế nhưng, từ nhiều năm, chúng ta đã để cho giáo dục Việt Nam tụt hậu khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chưa bao giờ tình hình giáo dục trở nên bức xúc như hiện nay. Nhìn chung cả nước, hệ thống giáo dục chưa ra khỏi trạng thái lộn xộn bất bình thường, hoạt động không theo quy luật khoa học, hiệu quả kém, chất lượng thấp, đang có nguy cơ bị thương mại hoá theo xu hướng ngược với lý tưởng công bằng và dân chủ của xã hội. Về cả ba phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài, những bất cập đều quá rõ:
 
- Dân trí thấp, biểu hịên trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác phong, tư tưởng, ý thức... Đạo đức bị xói mòn, thói gian dối, thiếu trung thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội. 
 
- Nhân lực không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu kiến thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay xở, thiếu đầu óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng chất lượng lao động khiến sức cạnh tranh rất thấp. 
 
- Nhân tài tuy không đến nỗi quá thiếu nhưng phát hiện và bồi dưỡng kém, thiếu cơ hội và điều kiện phát triển. Chất xám bị lãng phí nghiêm trọng dưới nhiều hình thức khác nhau. 
 
Đương nhiên, đây không chỉ là vấn đề của giáo dục, mà là vấn đề của toàn xã hội, nhưng trong đó trách nhiệm và vai trò cuả giáo dục rất lớn. 
 
Tình trạng sa sút của giáo dục là một thực tế khó chấp nhận, nhưng cần được nhìn thẳng mới có thể thấy được đường ra. Hoàn toàn không nên so sánh với thời bao cấp hay mấy năm đầu đổi mới để dễ dàng bằng lòng với bước tiến chậm chạp đã có, mà cần mở tầm mắt ra thế giới bên ngoài, để cảm nhận rõ hơn sự tụt hậu ngày càng xa của chúng ta. Cách so sánh với quá khứ đầy khó khăn trước đây là liều thuốc an thần nhưng thiếu trách nhiệm, vì thật ra sự sút kém của giáo dục hoàn toàn không xứng với tiềm năng của dân tộc, cả về tinh thần, trí tuệ, vật chất cũng như vận hội.
 
Từ 1966 đến nay, Trung ương đã có nhiều nghị quyết đúng đắn mà chưa được thực hiện nghiêm túc, cho nên tuy chúng ta đã có nhiều cố gắng để vực giáo dục lên, song những căn bệnh chính của nó không hề giảm, trái lại ngày càng trầm trọng và kéo dài chưa biết đến bao giờ. Điều đó cho thấy nguyên nhân trì trệ không phải chỉ do những sai lầm cục bộ về điều hành quản lý (tuy phần trách nhiệm của bộ máy quản lý không nhỏ), mà chủ yếu là sai lầm từ gốc, sai lầm từ nhận thức, quan niệm, tư duy cơ bản. Nói vắn tắt, là sai lầm có tính chất hệ thống, sai lầm thiết kế, không thể khắc phục bằng những biện pháp điều chỉnh chắp vá, sai đâu sửa đó, càng sửa càng rối, mà cần phải cương quyết xây dựng lại từ gốc. Đó là mệnh lệnh cuộc sống, nếu chúng ta không muốn tụt hậu thêm nữa.
 
II. Con đường ra : cải cách, hiện đại hoá giáo dục
 
Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tất yếu phải bắt đầu bằng việc hiện đại hoá giáo dục, mà sự lạc hậu của nền giáo dục của chúng ta chung qui là ở chỗ nó rất xa lạ với kinh nghiệm lịch sử của chúng ta và kinh nghiệm giáo dục trên thế giới, trong lúc chúng ta đang cần hội nhập để phát triển. Vì vậy con đường ra khỏi những khó khăn là xây dựng lại giáo dục từ gốc để tiến tới một nền giáo dục phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc và xu thế chung của thế giới, tạo điều kiện cho cuộc hội nhập thành công. Đó chính là nhiệm vụ hiện đại hoá giáo dục, với nội dung và phương hướng như sau. 
 
1. Để xây dựng lại giáo dục từ gốc, trước hết cần thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại quan niệm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo và chức năng của nhà trường, từ đó mới thấy rõ cần thay đổi cung cách dạy và học, thay đổi nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý giáo dục, như thế nào để đạt được mục tiêu đó. Nên rà soát lại để dứt khoát từ bỏ đào tạo những mẫu người chỉ biết ngoan ngoãn chấp hành, quen được dẫn dắt, bao cấp cả về tư duy và hành động, hơn là biết suy nghĩ độc lập và tự chịu trách nhiệm. Cần coi trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người hiện đại có cá tính nhưng bao dung, biết giao tiếp và hợp tác, biết làm việc có hiệu quả, có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, không ngại đương đầu với thách thức, khó khăn, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm vì mục đích lớn, và nhất là trung thực và có đầu óc sáng tạo, là những đức tính tối cần thiết trong đời sống xã hội hiện đại. Đồng thời cần quan tâm đến giáo dục thẩm mỹ, giáo dục cảm xúc, đào tạo toàn diện con người có tâm hồn và thể chất khoẻ mạnh.
 
2. Từ quan niệm bao quát nói trên phải xem xét lại toàn bộ tổ chức quá trình giáo dục, bao gồm cả nội dung chương trình, phương pháp từng cấp học, sao cho phù hợp với mục tiêu chung. Chẳng hạn phải giảm bớt đáng kể giờ lên lớp nghe giảng, tăng giờ thực hành, giờ học theo phương pháp tương tác, dành thì giờ cho việc tự học, tuỳ lứa tuổi tập tham khảo sách báo, tư liệu, thảo luận xêmina, thuyết trình, tham luận, viết tiểu luận, làm dự án, ... Ngay từ nhỏ học sinh cần tập dần để biết suy nghĩ, ham thích tìm tòi, ham thích khám phá, sáng tạo từ dễ đến khó, tập phát hiện và giải quyết vấn đề, hạn chế học thuộc lòng, chống nhồi nhét kiến thức máy móc tuy không xem nhẹ rèn luyện trí nhớ. Giảm, bỏ, hoặc thay đổi hẳn nội dung và phương pháp dạy những điều có tinh chất kinh kệ, để tăng các kiến thức thiết thực, hoặc đòi hỏi vận dụng tư duy nhiều hơn. Đối với nước ta, điều này càng quan trọng vì tàn tích lối học từ chương khoa cử, tinh thần hư học cổ lỗ cho đến bây giờ vẫn còn rất nặng trong xã hội ta và ngay cả trong giới trí thức ta. Đặc biệt đại học càng phải coi trọng đầu óc, phong cách và kỹ năng nghiên cứu khoa học. 
 
3. Công bằng, dân chủ là xu hướng của xã hội tiến bộ hiện đại, tuy cách hiểu và thực thi còn nhiều điểm khác nhau tuỳ mỗi nước. Trong giáo dục công bằng, dân chủ có nghĩa là bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về cơ hội học tập và cơ hội thành đạt trong học vấn. Ngày nay, đó không chỉ là một nguyên tắc đạo đức mà còn là điều kiện để bảo đảm sự phát triển của xã hội. Chỉ khi có công bằng, dân chủ trong giáo dục, chỉ khi mọi người, dù giàu nghèo, sang hèn, đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau thì tiềm năng trí tuệ của xã hội mới được khai thác hết. Hiện nay ở nước ta con em các tỉnh miền núi, các vùng nông thôn, hay con em nhà nghèo ở thành thị, đi học đã khó mà học lên cao càng khó hơn. Với chế độ học tập buộc phải học thêm ngoài giờ rất nhiều, phải đóng góp vô vàn khoản tốn kém ngoài học phí, hàng năm phải mua sắm sách giáo khoa mới, với chế độ đánh giá và thi cử tốn kém như hiện nay, nhà trường của ta đã vô tình gạt ra ngoài cả một lớp trẻ thiếu may mắn vì trót sinh ra trong những gia đình nghèo hoặc không ở thành phố. 
 
4. Tùy theo cá tính, mỗi con người có những sở thích, sở trường, sở đoản riêng, sự đa dạng ấy làm nên cuộc sống phong phú trong xã hội hiện đại và là mảnh đất để nảy nở tài năng sáng tạo. Cho nên giáo dục phải phóng khoáng, không hạn chế, hay kìm hãm mà trái lại phải tôn trọng, phát triển cá tính, và muốn thế không nên gò bó mọi người trong một kiểu đào tạo như nhau, một hướng học vấn như nhau, mà phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, đồng thời cho phép họ dễ dàng chuyển sang con đường khác khi thấy sự lựa chọn của mình chưa phù hợp. Đó là tư tưởng chỉ đạo để giải quyết vấn đề phân ban ở các năm cuối trung học phổ thông, phát triển nhiều loại hình đại học và cao đẳng đáp ứng nhu cầu đa dạng của tuổi trẻ, đồng thời bảo đảm sự liên thông tối đa giữa các cấp học và các loại trường học khác nhau để không ai bị lâm vào ngõ cụt trên con đường học vấn.
 
5. Do bước tiến nhanh của khoa học và công nghệ, các ngành hoạt động kinh tế ngày càng yêu cầu lực lượng lao động phải có trình độ hiểu biết cao mới đảm bảo hiệu quả và năng suất. Hơn nữa trình độ văn minh hiện đại cũng đòi hỏi mọi thành viên trong xã hội phải có học thức cao mới hưởng thụ được đầy đủ cuộc sống của bản thân và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Trước tình hình đó, xã hội văn minh đang tiến đến chỗ trình độ học thức hai năm đầu của đại học trở thành cần thiết cho mọi người, giống như trình độ tiểu học cách đây một thế kỷ. Vì vậy, xu thế tất yếu là phải tiến tới mở cửa đại học cho số đông, rồi cho đại bộ phận dân chúng. Điều này đỏi hỏi những thay đổi lớn trong quan niệm về sứ mạng, nhiệm vụ cũng như tổ chức, quản lý giáo dục đại học. Đặc biệt, với trình độ phát triển hiện nay và với cơ cấu nhu cầu lao động trong thời gian tới, cần chú ý phát triển loại hình đại học ngắn hạn 2 năm (về kỹ thuật hay các nghiệp vụ du lịch, kế toán, ngoaị ngữ, ...).
 
6. Trong khi nâng cao dân trí, mở rộng cửa nhà trường, kể cả đại học, cho đông đảo người dân, thì giáo dục không thể coi nhẹ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Trái lại, phải rất chú trọng tài năng, khắc phục bình quân và trung bình chủ nghĩa vốn là nhược điểm thường thấy ở các nước nghèo như ta. Trong thời đại kỹ thuật số hơn bao giờ hết, sự hưng thịnh của các quốc gia một phần rất quan trọng, nếu không nói quyết định, là do bởi có nhiều tài năng xuất chúng được nâng niu, nuôi dưỡng và được tạo điều kiện phát triển tột độ. Tài năng quan trọng cho xã hội hiện đại đến mức số lượng và chất lượng người tài được đào tạo là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá hiệu quả giáo dục. Cho nên, hệ thống giáo dục, đặc biệt là đại học, phải có biện pháp hữu hiệu để đào tạo nhiều người tài, hơn nữa xã hội phải được tổ chức như thế nào để tài năng không tàn lụi sớm mà được khuyến khích phát triển ngày càng cao. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy giáo dục càng công bằng, dân chủ, số người được học càng đông, thì trong số đông đó càng xuất hiện nhiều người tài xuất sắc. Vì vậy công bằng, dân chủ trong giáo dục không những không mâu thuẫn với việc chú trọng tài năng, mà còn là cơ sở để đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước. 
 
7. Trong thời đại khoa học và công nghệ tiến nhanh như vũ bão, không ai có thể thoả mãn với vốn kiến thức đã có của mình. Mọi người đều cần học tập, học thường xuyên, học suốt đời, cho nên giáo dục thường xuyên phải không ngừng mở rộng cả về phạm vi, quy mô, hình thức, đối tượng, và sử dụng những phương tiện kỹ thuật tân tiến nhất: máy tính, Internet, đa truyền thông không dây, ..., để cho ai, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thể học được dễ dàng và có hiệu quả. Vai trò của giáo dục thường xuyên trong xã hội hiện đại ngày càng tăng lên đến mức ở một số nước tổng chi phí của xã hội cho giáo dục thường xuyên vượt cả tổng chi phí cho giáo dục theo trường lớp truyền thống. 
 
Để thực hiện xã hội học tập theo quan niệm đó, cần gây dựng và duy trì trong mọi tầng lớp và ở mọi môi trường xã hội một tinh thần hiếu học mới, lòng ham chuộng tri thức, thói quen tự học, tự hoàn thiện hiểu biết và nhân cách để sống và làm việc tốt hơn. Với cách nhìn ấy, cần khuyến khích phát triển các trung tâm học tập cộng đồng như đã hình thành gần đây trong khuôn khổ Hội Khuyến học. 
 
8. Đặc điểm quan trọng của giáo dục hiện đại là sử dụng rộng rãi Internet, công nghệ thông tin trong mọi khâu giáo dục, từ nội dung cho đến phương pháp, tổ chức. Lý do dễ hiểu là vì một mặt công nghệ thông tin đã len lỏi vào mọi hoạt động kinh tế và đời sống trong xã hội hiện đại, khiến cho hiểu biết tối thiểu về tin học trở nên cần thiết cho mọi người, và mặt khác, máy tính, Internet, viễn thông, truyền thông không dây, đã trở thành những công cụ có thể hỗ trợ đắc lực việc giảng dạy và học tập theo các yêu cầu nêu trên. Đặc biệt phải biết tận dụng khả năng công nghệ thông tin, phát triển mạnh giáo dục từ xa để đáp ứng một cách tiết kiệm, linh hoạt và hữu hiệu nhu cầu học tập ngay tại nơi lao động và sinh hoạt của đông đảo người dân.

9. Dựa trên các nguyên tắc vừa nêu cần cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục. Về bậc tiểu học và Trung Học Cơ Sở, trong nước đã có hệ thống thực nghiệm giáo dục được nghiên cứu từ hơn hai mươi năm nay và đã được áp dụng trên nhiều vùng đất nước, cần có sự thẩm định và đánh giá khách quan, nghiêm túc, để nếu cơ bản nó đáp ứng các yêu cầu nêu trên thì có thể mở rộng thực hiện trong cả nước, coi đó cũng là một nét đặc thù của giáo dục VN. Về bậc Trung Học Phổ Thông cần nghiên cứu lại việc phân ban theo tinh thần tiến tới tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ trên cơ sở bảo đảm một mặt bằng văn hoá chung thích hợp, đồng thời tổ chức đủ mềm dẻo để cho phép điều chỉnh những sự lựa chọn chưa phù hợp. Về đại học và kỹ thuật trung cấp, hiện nay cả thế giới đều hướng tới xây dựng một hệ thống giáo dục tương đồng với nhau về cấu trúc và cả nội dung đào tạo để thuận tiện cho việc hợp tác và trao đổi quốc tế (như tú tài +3 năm cho chương trình cử nhân, tú tài +5 năm cho chương trình thạc sĩ, kỹ sư, tú tài +8 năm cho chương trình tiến sĩ). Ta cần sớm chủ động hội nhập vào xu thế chung đó. 

10. Cuối cùng, muốn cải cách thành công phải cải tổ quản lý giáo dục. Trước hết cần có sự chuyển biến mạnh mẽ ngay trong bộ máy lãnh đạo và quản lý về quan điểm giáo dục như đã nêu trên, trên cơ sở đó thay đổi, cải tiến tổ chức, phương pháp quản lý, nhằm phát huy sáng kiến chủ động của các cấp, từng bước khắc phục bệnh tập trung quan liêu. Cần cải tổ Hội đồng giáo dục quốc gia thành một hội đồng thật sự có năng lực tư vấn cao ở tầm chiến lược, tăng cường bộ máy thanh tra đi đôi với mở rộng quyền tự chủ, trong khuôn khổ quy định, cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các đại học lớn, về mọi vấn đề thuộc phạm vi chương trình, tổ chức, kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác. Quản lý giáo dục cũng tức là quản lý các hoạt động làm nền tảng phát triển trí tuệ, phát triển năng lực sáng tạo của xã hội, cho nên liên quan khăng khít với quản lý các hoạt động khoa học, công nghệ. Tiến tới chấm dứt tình trạng ngăn cách giữa các đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ. Hệ thống quản lý giáo dục cần được cải tổ thành mạng lưới, vận hành theo cơ chế mạng, tận dụng các tri thức khoa học và phương tiện kỹ thuât về quản lý mạng, để tăng hiệu quả quản lý, phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại. 

III. Mấy vấn đề cấp bách

Cải cách giáo dục theo phương hướng hiện đại hoá như trên là việc lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ xã hội nên cần có kế hoạch chu đáo, được nghiên cứu và chuẩn bị kỹ để thực hiện từng bước, từng bộ phận, trong một lộ trình thống nhất do Quốc hội thông qua, tránh đột ngột và xáo trộn gây căng thẳng trong xã hội. Nhưng trong thời gian chuẩn bị (vài ba năm), phải giải quyết ngay một số vấn đề cấp bách để tạo cơ sở và mở đường chuyển dần sang cải cách. 

Về giáo dục phổ thông:

Mâu thuẫn lớn trong giáo dục phổ thông hiện nay là một mặt ta lên án bệnh học vẹt, học vì mảnh bằng, và luôn hô hào cải tiến phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, học đi đôi với hành, v.v..., nhưng mặt khác vẫn duy trì cách thi cử cổ lỗ, vẫn dung túng, thậm chí khuyến khích (vô tình, bằng chế độ lương phi lý) dạy thêm, học thêm tràn lan, mà không thấy rằng chính những việc đó, cộng thêm chương trình và sách giáo khoa bất cập, là nguyên nhân trực tiếp tạo ra nếp dạy và học lạc hậu trong nhà trường, cũng là nguyên nhân gây ra mất công bằng, dân chủ, làm cho môi trường học đường ngày càng bị ô nhiễm, giáo dục lún sâu vào xu hướng hư học, đi ngược hẳn các phương châm giáo dục tiến bộ. Vì vậy phải kiên quyết xoá bỏ tình trạng tiêu cực, lạc hậu trong các khâu thi cử, dạy thêm, và sách giáo khoa. 

1. Cải cách thi cử và đánh giá. Nên bỏ các kỳ thi tốt nghiệp từng cấp học (tiểu học, Trung Học Cơ Sở, tú tài) mà thay vào đó, thực hiện thi, kiểm tra nghiêm túc thường xuyên, đều đặn, từng chặng, từng phần của từng môn học, đến cuối cấp xét các kết quả học tập để đánh giá tổng hợp và cho tốt nghiệp. Chỉ giữ hình thức thi tốt nghiệp cuối cấp Trung Học Phổ Thông cho những người vì lý do này khác không có điều kiện theo học bình thường ở nhà trường. Cần hiểu đây không phải là bỏ thi như một số người hiểu nhầm, mà thi như thế nào để đạt hiệu quả thực chất, nghiêm túc và tránh áp lực nặng nề không cần thiết, lại tốn kém và có hại đối với tâm lý học sinh. 

2. Xoá bỏ dạy thêm, học thêm tràn lan. Đây là tệ nạn kéo dài quá lâu, đã đến lúc không thể nhân nhượng thêm nữa, mà cần dứt khoát xoá bỏ. Cần xem đây là trách nhiệm của chính quyền và đi đôi với giảm nhẹ áp lực thi cử, phải có giải pháp tiền lương thỏa đáng, để bảo đảm cho giáo viên có thể tập trung làm tốt nhiệm vụ giảng dạy chính, khỏi lo kiếm sống hoặc tăng thu nhập bằng việc dạy thêm, dẫn tới nhu cầu giả tạo buộc học sinh phải học thêm lu bù. Cần cương quyết cấm tăng tiết, tăng giờ lên lớp nghe giảng, rà soát lại chương trình theo hướng giảm tải, đổi mới phương pháp giảng dạy, không chỉ bằng cách cải tiến cách giảng bài, mà còn cải tiến cả tổ chức quá trình giảng dạy: tăng số giờ thực hành, dành thời gian hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc sách, tham khảo tài liệu, tập thuyết trình, thảo luận, tham gia các hoạt động vui chơi, thể thao, văn nghệ, v.v. Mặt khác, phải bảo đảm cho bản thân giáo viên có thời gian và điều kiện tự học và thực hiện các kế hoạch định kỳ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo dục. 

3. Chỉnh đốn việc biên soạn, xuất bản và sử dụng sách giáo khoa. Từ nhiều năm nay sách giáo khoa chậm được cải tiến về chất lượng nội dung, hình thức trình bày, mà giá vẫn cao đối với phần lớn gia đình có con em đi học, lại được sử dụng rất lãng phí (hàng năm in sách mới). Nên học tập kinh nghiệm các nước về cả tổ chức, phương pháp và kỹ thuật, đổi mới quan niệm về biên soạn sách giáo khoa theo những quan điểm giáo dục hiện đại, đổi mới quan niệm về xuất bản, sử dụng sách giáo khoa, tiến đến sách giáo khoa không chỉ bảo đảm về chất lượng, nội dung, mà còn phải bền, chắc, hấp dẫn, hợp với lứa tuổi và ổn định trong nhiều năm để có thể sử dụng sách cũ và chủ yếu cho học sinh thuê sách để học. Nhà nước không thu lãi trên sách giáo khoa, không coi việc xuất bản sách giáo khoa là ngành kinh doanh, nhưng cần tạo ra cơ chế khuyến khích các nhà giáo dục, nhà khoa học tích cực tham gia vào công tác biên soạn.

Về giáo dục đại học:

Trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn giáo dục phổ thông. Trước đây ta xây dựng đại học theo mô hình Liên xô cũ, nay nền đại học đó không còn thích hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, song những biện pháp sửa đổi chắp vá thời gian qua đã phá vỡ tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh tượng lộn xộn, không còn chuẩn mực, không theo quy củ, tuỳ tiện, và kém hiệu quả. Muốn thoát ra khỏi tình trạng này, cần có thời gian và một lộ trình hiện đại hoá thích hợp. Trước mắt, để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ công cuộc hiện đại hoá, nên tập trung chỉnh đốn một số khâu then chốt đang tác động tiêu cực đến sự phát triển bình thường của đại học. Đồng thời xây dựng mới một đại học thật sự hiện đại, làm hoa tiêu hướng dẫn và thúc đẩy sự đổi mới trong toàn ngành. 

1. Trước hết, cần cải cách mạnh mẽ việc thi cử và đánh giá, chuyển toàn bộ việc học theo hệ thống tín chỉ; thi, kiểm tra nghiêm túc từng chặng trong suốt khoá học, thay vì dồn hết vào một kỳ thi tốt nghiệp nặng nề mà ít tác dụng. Về tuyển sinh đại học và cao đẳng, nên bỏ kỳ thi hiện nay, nặng nề, căng thẳng, tốn kém , mà hiệu quả thấp, để thay vào đó một kỳ thi nhẹ nhàng chỉ nhằm mục đích sơ tuyển, để loại những học sinh chưa đủ trình độ tối thiểu cần thiết theo học đại học. Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào do đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học Trung Học Phổ Thông và thẩm vấn hoặc thi nếu cần thiết.
2. Chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Bằng thạc sĩ và tiến sĩ phải theo chuẩn mực quốc tế, không thể tuỳ tiện, đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng, mà phải lấy chất lượng, trình độ, làm tiêu chí hàng đầu. Thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động khoa học cốt cán, nếu trình độ quá thấp, đào tạo dối trá, thì không chỉ tai hại cho giáo dục, khoa học, mà còn ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng khác, nhất là trong một xã hội còn quá chuộng bằng cấp như chúng ta. Vì vậy cần chỉnh đốn từ gốc, rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, ngành được phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn yếu thì cương quyết dừng lại việc đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, lập lại trật tư, kỷ cương, chống gian dối và cẩu thả trong việc đào tạo và cấp bằng. Đồng thời những cơ sở đại học nào được phép đào tạo cần có đủ quyền chủ động từ việc tuyển nghiên cứu sinh, lựa chọn chương trình, cử người hướng dẫn cho đến tổ chức phản biện, bảo vệ và cấp bằng, để có thể tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội về chất lượng đào tạo. 

3. Chần chỉnh công tác chức danh Giáo Sư ( GS ), Phó Giáo Sư ( PGS ). Đây là một trong những khâu then chốt để bảo đảm chất lượng cho đại học, nhưng trong một thời gian dài cho đến hiện nay, ở nước ta đã thực hiện khá tuỳ tiện và còn quá nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự trì trệ kéo dài của đại học chính là ở công tác này, thể hiện khá tập trung những khuyết điểm về chính sách nhân tài. Do đó để mở đường hiện đại hoá đại học, cần sớm chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS, trước hết cải tổ “Hội đồng chức danh GS” thành một hội đồng không trực tiếp công nhận các chức danh mà chỉ xét duyệt hàng năm, định kỳ, để công nhận những người đủ tư cách ứng cử vào các chức danh GS, PGS ở các đại học và viện nghiên cứu. Hàng năm các đại học và viện nghiên cứu công bố nhu cầu tuyển GS, PGS [với sự chấp thuận của cấp có thẩm quyền] để cho bất cứ ai đã được công nhận “đủ tư cách” đều có thể dự tuyển. Còn việc xét tuyển được trả lại cho các hội đồng tuyển chọn của từng đại học và viện nghiên cứu, hội đồng này gồm một số chuyên gia thuộc biên chế đơn vị đó và có thể thêm một số chuyên gia ở ngoài. Quyết định của Hội đồng được trình lên cấp trên có thẩm quyền thông qua trước khi thực hiện.

4. Cải thiện chính sách sử dụng giảng viên đại học. Tình trạng phổ biến hiện nay ở các đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ (25-30 giờ mỗi tuần không phải là hiếm), kể cả giờ dạy trong trường, ngoài trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy “liên kết” ở các địa phương, dạy tư, luyện thi, “dạy xô”, v.v.), do đó, ngay ở các đại học lớn, cũng rất ít nghiên cứu khoa học, và nhiều người đã lâu không có thói quen cập nhật kiên thức, nâng cao trình độ nhưng lại sản xuất đều đều cử nhân, thạc sĩ, thậm chí cả tiến sĩ. Trình độ GS, PGS của ta nói chung khá thấp so với quốc tế, cả nước số GS đã được công nhận mới chiếm tỉ lệ chưa tới 0,1%, số PGS chưa tới 5%, trong toàn bộ số giảng viên đại học. Nếu kể cả những người thực tế có năng lực nhưng chưa được công nhận Giáo Sư ( GS ), Phó Giáo Sư ( PGS ) do cách tuyển chọn chưa hợp lý, đội ngũ giảng viên đại học vẫn rất yếu về trình độ và số lượng, mà tuổi tác lại khá cao, đó là tình trạng không thể chấp nhận được, cần có biện pháp cải thiện nhanh, nếu không sẽ di hại qua nhiều thế hệ. 

5. Đổi mới các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên phổ thông. Cần nghiên cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm trọng điểm, vì theo kinh nghiệm các nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm, còn giáo viên Trung Học Cơ Sở và Trung Học Phổ Thông trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về chuyên môn khoa học rồi mới bổ túc kiến thức và kỹ năng sư phạm. Do đó phải thay đổi cách đào tạo ở các trường sư phạm, chú trọng nhiều hơn phần chuyên môn khoa học, đồng thời phải mở rộng đối tượng tuyển dụng giáo viên phổ thông từ các cử nhân hay thạc sĩ, sau một khoá bổ túc ngắn hạn về nghiệp vụ sư phạm. Các đại học sư phạm nên dần dần chuyển thành đại học đa ngành, trong đó có khoa sư phạm (giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ giảng dạy và khoa học sư phạm.

6. Xây dựng “mới” một đại học đa ngành hiện đại, làm “hoa tiêu” cho cải cách đại học sau này. Song song với những biện pháp cấp bách kể trên, cần bắt tay xây dựng ngay một đại học đa ngành thật hiện đại, theo chuẩn mực quôc tế và sánh kịp các đại học tiên tiến nhất trong khu vực, để làm hoa tiêu cho toàn bộ công cuộc hiện đại hoá đại học. Cần xây dựng hoàn toàn “mới” đại học này, nghĩa là không phải ghép chung lại một số đại học đã có sẵn (theo kinh nghiệm không thành công như đã làm cho tới nay), mà toàn bộ giảng viên và sinh viên tuyển vào đều là “mới”. Lúc đầu không nhất thiết đủ hết mọi ngành, và quy mô có thể hạn chế trong số mấy trăm sinh viên, nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo đúng các chuẩn mực quốc tế về mọi mặt: cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở, học tập của sinh viên, phương pháp, nội dung chương trình, trình độ giảng viên (lúc đầu một số ngành có thể mời giảng viên nước ngoài hoặc Việt kiều), sinh viên lấy vào, v.v. Đại học mới này sẽ đào tạo theo ba cấp học: cử nhân (tú tài+3-4 năm), thạc sĩ, kỹ sư (tú tài + 5năm), tiến sĩ (tú tài+8 năm). 

7. Tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng đầu tư. Cần cải cách chế độ lương và phụ cấp, bảo đảm cho giảng viên đại học một mức thu nhập phù hợp với năng suất và trình độ từng người để họ có thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống quá nhiều, tạo mọi điều kiên cho họ có thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệ thế giới và khu vực. Tăng học phí hợp lý phải đi đôi với tăng tích cực chất lượng đào tạo, đồng thời có chính sách học bổng rõ ràng, thiết thực, để giúp đỡ có hiệu quả người nghèo và những người trong diện cần nâng đỡ. 

Trên đây là một số vấn đề cáp bách về giáo dục phổ thông và đại học. Thật ra, còn một vấn đề rất cấp bách nữa chưa được đề cập đến trong bản kiến nghị này là giáo dục trung cấp chuyên nghiệp, mà sự yếu kém do thiếu quan tâm của chúng ta trong thời gian dài là một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến thanh niên không còn con đường nào khác, phải đổ xô vào đại học, làm trầm trọng thêm các vấn đề phổ thông và đại học. Lĩnh vực này cũng cần đầu tư thích đáng để hiện đại hoá thì mới đáp ứng được các yêu cầu phát triển của đất nước trong những năm tới. Đặc biệt, song song với mở rộng hệ thống các trường dạy nghề, trường trung cấp kỹ thuật, cần tích cực phát triển loại hình đại học 2 năm như đã nói ở mục II.5.

Bao trùm trên hết là chính sách phát triển nguồn nhân lực và tài năng để phục vụ công cuộc phát triển của đất nước, thể hiện trong việc hiểu và thực thi chủ trương coi phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khâu yếu nhất vẫn là chính sách đối với lao động trong giáo dục và khoa học, hai ngành hoạt dộng liên quan khăng khít với nhau, mà sự tụt hậu của một ngành luôn gắn liền với sự tụt hậu của ngành kia. Những bất cập trong chính sách này đã được nêu lên từ lâu, đến nay vẫn còn chờ sự quan tâm và giải quyết của Nhà nước và xã hội."